01. DÒNG GIỐNG LẠC HỒNG
	
	Cha Rồng gặp Mẹ chốn Đào nguyên
	Dòng giống Việt Nam tỏa mọi miền
	Kẻ ngược lên non cầu hạnh phúc
	Người xuôi xuống bể nguyện bình yên
	Bàn tay gầy dựng xây cơ nghiệp
	Khối óc đắp vun tạo móng nền
	Đoàn kết cho ta nguồn sức mạnh
	"Đồng bào"–Hai tiếng gọi thiêng liêng.
	
	25/10/2005
	
	02. CÁC VUA HÙNG (2879-208 TCN)
	
	Tiếng gọi thiêng liêng mãi vọng xa
	Hùng Vương dấy nghiệp dựng sơn hà
	Trống đồng giục chí trai anh tuấn
	Chim Lạc khơi lòng gái vị tha
	Thánh Gióng trao cho gương dũng cảm
	Lang Liêu truyền lại đức khoan hòa
	Non sông gấm vóc ơn Tiên Tổ.
	Mười tám đời vua, vẹn khúc ca.
	
	26/10/2005
	
	03. TRUYỀN THUYẾT CỔ LOA (208–179 TCN)
	
	Khúc ca bi tráng ngất mây xanh
	Truyền thuyết Cổ Loa kể ngọn ngành
	Thục Phán chủ quan, chôn đế nghiệp
	Triệu Đà hiểm độc, chiếm kinh thành
	Mỵ Châu lầm lỡ, oan mà tiếc
	Trọng Thủy gian ngoan, thác đã đành
	Cao Lỗ tướng quân đời tuấn kiệt
	Minh quân không gặp, uổng tài danh.
	
	26/10/2005
	
	04. THI SÁCH–TRƯNG VƯƠNG (?–43)
	
	Tài danh Thi Sách đất Chu Diên
	Trưng Trắc–Mê Linh, đẹp lại hiền
	Hợp nhất nhân tài mưu sự cả
	Nhân đôi thế lực đợi cơ duyên
	Hung tin phu tướng lâm tai ách
	Phẫn chí quần thoa phát hịch truyền
	Hiệu triệu muôn người chung ý chí
	Rợp cờ nương tử khắp trăm miền.
	
	27/10/2005
	
	05. Bà TRIỆU THỊ TRINH (225–248)
	
	Trăm miền nức tiếng Triệu Trinh Nương
	Xông trận cưỡi voi, khỏe lạ thường
	“Đạp lớp sóng cao”, lui tướng mạnh
	“Cưỡi cơn gió lớn”, chém binh cường (1)
	“Đối đầu mãnh hổ, không nao núng”
	“Giáp mặt Vương Bà, khó đảm đương” (2)
	Chấn động Giao Châu, Ngô khiếp đảm
	Trời Nam liệt nữ, sáng ngời gương.
	
	28/10/2005
	
	06. LÝ NAM ĐẾ (503–548)
	
	Sáng ngời gương thủ lĩnh Long Hưng
	Lý Bí khởi binh chống giặc Lương
	Nam Đế tiền triều, chia quốc thổ
	Vạn Xuân khai quốc, vạch biên cương
	Định Đô đánh thức lòng kiêu dũng
	Đúc bạc nêu cao chí tự cường
	Khẳng định tự do và độc lập
	Nước non vạn thuở nhớ công ơn.
	
	28/10/2005
	
	07. TRIỆU QUANG PHỤC (–571)
	
	Ơn Triệu Việt Vương giỏi cuộc cờ
	Về miền sông nước đợi thời cơ
	Đồng thời tập kích, lo lương thảo
	Kết hợp tăng gia, lập trận đồ
	Lợi dụng địa hình vùng Dạ Trạch
	Phát huy nguồn lực đất Màn Trò
	Trường kỳ cầm cự tiêu hao địch
	Chuyển hướng dụng binh, lợi bất ngờ.
	
	29/10/2005
	
	08. MAI THÚC LOAN (? – 722)
	
	Bất ngờ dấy nghĩa ở Châu Hoan
	Hắc Đế mồ côi, khó đủ đàng
	Đô vật lừng danh vang mấy phủ
	Thợ săn nổi tiếng nhất trong làng
	Võ công trăm trận ghi bia đá
	Uy đức một phương khắc sử vàng
	Sở Khách tháo lui, Đường bạt vía
	Vải thiều lệ cống, dứt đường sang.
	
	29/10/2005
	
	09. PHÙNG HƯNG (760–802)
	
	Sang đất Đường Lâm, cứ một phương
	Có nhà hào trưởng, gọi Phùng Hưng
	Quật trâu dùng sức, tài kỳ tuyệt
	Đả hổ lập mưu, giỏi dị thường
	Năm đạo quân hùng vây quyết liệt
	Một đời tướng giặc chết bi thương
	Thác còn linh hiển phò dân nước
	Bố Cái Đại Vương–Chí quật cường.
	
	30/10/2005
	10. HỌ KHÚC GIÀNH ĐỘC LẬP (905–930)
	
	Quật cường họ Khúc tiếp cha ông
	Khôi phục chủ quyền của núi sông
	Giữa lúc loạn phân, giành độc lập
	Nhân thời tranh chấp, cứu non sông
	Ngoại giao linh hoạt, thừa mềm mỏng
	Ứng xử khoan hòa, đủ khéo khôn
	Xóa bỏ chính quyền đô hộ địch
	Hai lăm năm lẻ, sử ghi công.
	
	30/10/2005
	11. DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ (?–937)
	
	Công Dương Đình Nghệ tụ nhân tài
	Võ nghệ tập rèn nuôi chí trai
	Hiền tế Ngô Quyền coi phủ nội
	Trọng thần Công Trứ trấn bên ngoài
	Khắc Trinh bỏ mạng, quân tan vỡ
	Lý Tiến rút lui, ngựa chạy dài
	Trần Bảo viện binh vừa kịp tới
	Không còn mảnh giáp khoác trên vai.
	
	09/11/2005
	12. NGÔ QUYỀN (897–944)
	
	Vai vế Ngô Quyền sách đã tuyên
	Khôi ngô, hội đủ: dũng–uy–hiền
	Tấm thân tráng kiện, chăm mài dũa
	Trí tuệ cao minh, chịu luyện rèn
	Chiến trận oai hùng, bia đá tạc
	Võ công trác tuyệt, sử son truyền
	Bạch Đằng đỏ máu quân Nam Hán
	Con cháu muôn đời vẫn nhắc tên.
	
	30/10/2005
	13. ĐINH TIÊN HOÀNG ĐẾ (968-979)
	
	Tên Vạn Thắng Vương rạng sử xanh
	Cờ lau thuở nhỏ hãm vây thành
	Lê Hoàn, Khuông Việt theo phò tá
	Nguyễn Bặc, Đinh Điền kết tử sanh
	Phạm Hạp tin yêu tài kiệt xuất
	Lưu Cơ cảm phục trí tinh anh
	Đại Cồ Việt đặt–tôn vinh nước
	Đại Thắng Minh Hoàng Đế, xứng danh.
	
	31/10/2005
	14. Thái hậu DƯƠNG VÂN NGA
	
	Danh thơm Dương Hậu tấm gương soi
	Sắc đẹp, tài hoa, sáng cõi đời
	Nhiếp chính vững vàng, ân đức tỏa
	Nhường ngôi cao cả, nghĩa nhân ngời
	Hy sinh dòng tộc vì sống núi
	Ký thác con côi bởi đất trời
	Sử sách ghi tên người nữ kiệt
	Lưu truyền hậu thế, triệu người noi.
	
	01/11/2005
	15. LÊ ĐẠI HÀNH (941-1005)
	
	Noi chí Lê Hoàn đất Thọ Xuân
	Theo Đinh Bộ Lĩnh, nhuốm phong trần
	Cầm quân mưu lược, thừa uy dũng
	Trị quốc anh minh, đủ đức ân
	Thủy bộ hai đường, kinh vía giặc
	Trong ngoài bốn cõi, đẹp lòng dân
	Chi Lăng chận địch ghi kỳ tích,
	Cùng Bạch Đằng giang dựng sóng thần. (3)
	
	01/11/2005
	16. LÝ THÁI TỔ (1010-1028)
	
	Thần Long báo mộng gặp cơ may
	Đón rước Đế vương đến chốn này
	Chùa Phật tịnh tâm, nuôi chí lớn
	Mõ chùa tĩnh trí, báo ơn dày
	“Sơn hà” vững chãi, tài thu xếp
	“Xã tắc” vinh quang, giỏi sắp bày
	Xuống chiếu dời Đô đầy khát vọng
	Thăng Long vận nước hóa rồng bay. (4)
	
	02/11/2005
	17. LÝ THƯỜNG KIỆT (1019–1105)
	
	Thăng Long vận nước hóa rồng bay
	Khí phách hào hùng sáng đến nay
	“Sông núi nước Nam đà định sẵn”
	Cõi bờ phương Bắc đã phân bày
	Chiến công Ung Quảng, thù phơi xác
	Phòng tuyến sông Cầu, giặc bỏ thây
	Đanh thép lời thơ ngời chí khí
	Tuyên ngôn nước Việt có từ đây. (5)
	
	03/11/2005
	18. Thái úy TÔ HIẾN THÀNH (?–1179)
	
	Đây văn, đó võ, nặng đôi vai
	Thái úy họ Tô, quả thực tài !
	Tiến cử hiền thần, tình thuận một
	Trợ phò Thái tử, lý xuôi hai
	Đà ngang trên mái, mưa khôn thấm
	Trụ đá giữa dòng, nắng khó phai
	Y Doãn, Chu Công thời chỉ vậy
	Trung thần thuở ấy, hỏi còn ai ? (6)
	
	09/11/2005
	19. Nguyên phi Ỷ LAN (?–1179)
	
	Hỏi còn ai gánh vác giang san ?
	Vương hậu Ỷ Lan–lựa chọn “vàng”
	Sắc đẹp vun bồi nên quyến rũ
	Tài năng chất đắp sớm khôn ngoan
	Cầm quân đánh giặc, Vua lo lắng
	Nhiếp chính yên dân, Hậu đảm đang
	Tài–sắc–đức–uy cùng hội tụ
	Ngàn dâu còn vẳng tiếng hò khoan.
	
	09/11/2005
	20. Thái sư TRẦN THỦ ĐỘ (1194–1264)
	
	”Khoan ! Cái đầu thần chửa có rơi
	Tâu xin bệ hạ hãy tin lời” (7)
	Quan dân nhất trí, nan không thoái
	Tướng sĩ đồng tâm, thác chẳng rời
	Cột trụ sơn hà–tôi bạc nén
	Móng nền xã tắc–đúc vàng thoi
	Công đầu thắng giặc Nguyên hung ác
	Ca ngợi Thái Sư khó dụng lời.
	
	04/11/2005
	21. HƯNG ĐẠO VƯƠNG (1232–1300)
	
	Lời văn Hịch Tướng Sĩ âm vang
	Tiết Chế Quốc Công dẫn rõ ràng
	Báo quốc, hiền thần đương bạo ác
	Trung quân, nghĩa sĩ đối hèn gian
	Chương Dương, Hàm Tử, Vân Đồn dội
	Tây Kết, Bạch Đằng, Vạn Kiếp ran
	Âu-Á, Nguyên Mông tung vó ngựa
	Phải thua nước Việt, nhỏ mà gan.
	
	05/11/2005
	22. PHẠM NGŨ LÃO (1255–1320)
	
	Gan vàng, dạ ngọc quyết xông pha
	Trai tráng xả thân báo nước nhà
	Trên dưới, Vương gia dò cặn kẽ,
	Trước sau, Ngũ Lão đáp sâu xa.
	Cầm quân tướng giỏi, mưu lừa thế
	Đối trận quân tinh, sức mượn đà
	“Ly loạn, anh hùng không góp sức
	Thẹn tai nghe chuyện Võ Hầu gia” ! (8)
	
	06/11/2005
	23. TRẦN BÌNH TRỌNG (1259–1285)
	
	Gia binh, tướng sĩ thảy đều ưa
	Bình Trọng trí mưu, dũng khí thừa
	“Thà quỷ nước Nam, bừng đuốc sáng
	Hơn Vương đất Bắc, vấy bùn nhơ” (9)
	Khảo tra, dọa dẫm, mua cay cú
	Mua chuộc, dỗ dành, chuốc chát chua
	Thương xót tấm gương ngời khí tiết
	Vua tôi trên dưới lệ như mưa.
	
	07/11/2005
	24. TRẦN QUỐC TOẢN
	
	Mưa nắng Bình Than đã mấy ngày
	Quả cam bóp nát vẫn không hay
	“Phá tan cường địch”, tim thiêu đốt
	“Báo đáp hoàng ân”, óc tỏ bày
	Tập hợp dưới cờ, dùi trống thúc
	Kêu mời trong trướng, ngọn cờ bay
	Tướng quân tuổi nhỏ, công nào nhỏ
	Góp sức mỗi người một cánh tay.
	
	07/11/2005
	25. LÊ LỢI – NGUYỄN TRÃI (1385–1433) và (1380–1442)
	
	Một cánh tay vươn giữa núi rừng
	Họ Lê dấy nghĩa chốn Lam Sơn
	Yên nhà, "đạo nghĩa thay hung ác"
	Cứu nước, "chí nhân thắng bạo cường" (10)
	Dùng ít địch nhiều, tùy tiến thủ
	Lấy nhàn chọi mỏi, biết nhu cương
	Quân sư Nguyễn Trãi nhiều mưu lược,
	Lê Lợi anh hùng–nức bốn phương.
	
	07/11/2005
	26. Vua LÊ THÁNH TÔNG (1460-1497)
	
	Nức bốn phương trời vua với tôi
	Tao đàn hai tám ánh sao ngời
	Thơ văn trác tuyệt, nồng hương thế
	Học vấn cao thâm, thắm vị đời
	Chấn chỉnh quan quyền theo phép tắc
	Sửa sang luật lệ đúng cơ ngơi
	Đất đai khai khẩn làm nền tảng
	Thịnh trị thái bình đến thế thôi.
	
	07/11/2005
	27. TRỊNH–NGUYỄN PHÂN TRANH (1767-1788)
	
	Đến thế thôi thì thật chán chê !
	Phân tranh Trịnh–Nguyễn, nỗi ê chề
	Vua Lê hèn hạ ôm hùm tới
	Chúa Nguyễn nhuốc nhơ cõng rắn về
	Miệng thế đau lòng, trơ mắt ếch
	Lưỡi đời xấu hổ, tẽn râu dê
	Bao giờ vận nước sang trang nhỉ ?
	Trống trận Tây Sơn rộn bốn bề.
	
	07/11/2005
	28. Hoàng đế QUANG TRUNG (1788-1792)
	
	Rộn bốn bề hồi trống thúc quân
	Theo chân Nguyễn Huệ, bước phong vân
	Ngọn cờ độc lập ngời nhân ái
	Nguồn sáng tự cường chói nghĩa ân
	Xoài Mút, Rạch Gầm, xua tháng giá
	Đống Đa, Tam Điệp, đón mùa xuân
	Quang Trung đức độ, tài năng thế
	Có một không hai dưới cõi trần. (11)
	
	08/11/2005
	29. ĐÔ ĐỐC BÙI THỊ XUÂN (?–1802)
	
	Dưới cõi trần, thân gái vẫy vùng
	Hiên ngang, bất khuất, rất kiên trung
	Cưỡi voi xông trận, so gươm giáo
	Lên ngựa công đồn, đọ kiếm cung
	Kính phục tấm gương người quả cảm
	Tiếc thương danh sáng nữ anh hùng
	Tây Sơn, Bình Định như còn tích
	Yếm lụa, quần thoa cũng lẫy lừng.
	
	09/11/2005
	30. THỜI NHIỆM–TRẦN THƯỜNG
	
	Lẫy lừng như Chiến Quốc–Xuân Thu !
	Thời thế nhiễu nhương, bạn hóa thù
	Ra đối, Trần Thường lên mặt Cáo
	Đáp lời, Thời Nhiệm ngẩng đầu Sư
	Thất thời, khảng khái, thua còn sáng
	Thuận thế, vênh vang, thắng đã mù
	Khanh tướng, công hầu mà nhục nhã
	Trần ai, ai thấu tận: hiền–ngu ? (12)
	
	09/11/2005
	31. NGUYỄN TRI PHƯƠNG (1800–1873)
	
	Hiền–ngu, phải–trái, lẽ phân minh
	Thành–bại, thắng–thua, cốt hết mình
	Vua chúa ươn hèn, lười chiến đấu
	Triều thần bạc nhược, ngại hy sinh
	Hiên ngang đối trận, dồn căm phẫn
	Quả cảm xông pha, dốc nhiệt tình
	Nhịn uống, nhịn ăn, thà tử tiết
	Giữ gìn khí phách vẹn trung trinh. (13)
	
	10/11/2005
	32. TRƯƠNG ĐỊNH (1821–1864)
	
	Vẹn trung trinh, Đại Soái Bình Tây
	Chiêu tập dân quê, những thợ cày
	Chối bỏ lợi danh, lòng khoáng đạt
	Coi thường tước lộc, chí cao dày
	Quân binh non nớt, không sờn dạ,
	Vũ khí sơ sài, há núng tay !
	Tập kích, công đồn, tiêu diệt giặc
	Hy sinh anh dũng giữa trùng vây.
	
	10/11/2005
	33. HOÀNG DIỆU (1829–1882)
	
	Giữa trùng vây giặc vẫn kiên gan
	Tổng đốc Hà–Ninh đứng vững vàng
	Đôn đốc quân dân tăng chí khí
	Hô hào tướng sĩ bớt hoang mang
	Triều đình bất lực, không nao núng
	Tự Đức yếu hèn, khỏi thở than
	Di biểu một tờ “dòng lệ máu”
	Lẻ loi tuẫn tiết–Chết hiên ngang.
	
	10/11/2005
	34. NGUYỄN TRUNG TRỰC (1838–1868)
	
	Hiên ngang đánh địch dọc trên sông
	Thống lãnh Nguyễn Trung Trực dốc lòng
	Nhật Tảo thiêu tàu, ghi chiến tích
	Kiên Giang phá lũy, lập kỳ công
	Hà Tiên, Rạch Giá, đừng quên cửa
	Phú Quốc, Hòn Chông, gắng nhớ dòng
	“Đất nước Việt Nam còn cỏ mọc
	Thì còn hào khí của non sông”. (14)
	
	11/11/2005
	35. TÔN THẤT THUYẾT (1839–1913)
	
	Non sông ghi nhớ một vì sao
	Binh Bộ Thượng Thư nhiệt huyết trào
	Củng cố chủ quyền, khoe vũ dũng
	Giữ gìn độc lập, lập công lao
	Tây Đông xuôi ngược, mòn binh giáp
	Nam Bắc vào ra, bạc chiến bào
	Chỉ tiếc triều đình nhu nhược quá
	Một tay khó với tận trời cao !
	
	11/11/2005
	36. NGUYỄN THIỆN THUẬT (1844–1926)
	
	Cao xanh khó thấu hiểu dân tình
	Hòa ước oái oăm ký, bãi binh
	Tự Đức ươn hèn ban sắc chỉ
	Tán quân quả cảm chẳng lai kinh
	Hai Sông lợi dụng nguồn nhân kiệt
	Bãi Sậy dựa kề thế địa linh
	Nước mất còn ham chi tước lộc
	Thà rằng quyết chiến dẫu hy sinh !
	
	11/11/2005
	37. ĐINH CÔNG TRÁNG (1842–1887)
	
	Sinh lúc nước non gặp lửa binh
	Lập nên chiến lũy thép Ba Đình
	Trại Cần, Kẻ Sở, bày mưu kế
	Kẻ Bưởi, Làng Thong, dựng địa hình
	Hố đất, hầm chông, săn dã thú
	Gậy tre, mã tấu, chém nghê kình
	Ba làng cứ điểm vùng chiêm trũng
	Thành nấm mồ chôn giặc viễn chinh.
	
	12/11/2005
	38. PHAN ĐÌNH PHÙNG (1847–1895)
	
	Chinh chiến nào đâu giống việc quan
	Tâm can căm hận lũ tham tàn
	Gom công, góp của, xây thành đất
	Dốc trí, dồn tâm, đúc súng gang
	Quân thứ phân chia, trên đỡ dưới
	Bố phòng sắp xếp, dọc dòm ngang
	Hương Khê kháng chiến mười năm chẵn
	Tán lý Đình nguyên thiệt giỏi giang.
	
	12/11/2005
	39. HOÀNG TÁ VIÊM
	
	Giỏi giang, dòng thế phiệt trâm anh
	Nệm ấm, chăn êm, được học hành
	Án sát, Lang trung, trừ diệt phỉ
	Biện tranh, Thống đốc, tấn công thành
	Văn quan đảm trách, không bê trễ
	Võ tướng hoàn thành, cũng gọn nhanh
	Hai thập niên liền mang trọng trách
	Căm thù xâm lược thấu trời xanh.
	
	12/11/2005
	40. HOÀNG HOA THÁM (1851–1913)
	
	Căm thù xâm lược thấu trời xanh
	Yên Thế dựng nên một lũy thành
	Chận giặc Đồng Hom, mưu mẹo khéo
	Chống càn Hàm Lợn, tính toan rành
	Hành binh thông thạo, nhàn mà lợi
	Chiến thuật tài tình, ít vẫn nhanh
	Linh hoạt tiêu hao sinh lực địch
	Ba mươi năm lẻ sử nêu danh.
	
	13/11/2005
	41. PHAN BỘI CHÂU (1867–1940)
	
	Danh tiếng loan truyền Phan Bội Châu
	Thông minh, học giỏi, chiếm ngôi đầu
	“Trùng Quang tâm sử”, ôn truyền thống
	“Hải ngoại huyết thư”, nối nhịp cầu
	Hội kín nọ–Văn minh vận động
	Đông Du kia–Hạnh phúc mưu cầu
	Một nhà cách mạng, tầm nhìn rộng
	Một sáng tác gia, hiểu biết sâu.
	
	13/11/2005
	42. PHAN CHU TRINH (1872–1926)
	
	Sâu thẳm tình yêu nước sắt son
	“Chấn hưng dân khí, tính vuông tròn
	Dân sinh cải thiện, điều thua được
	Dân trí mở mang, việc sống còn
	Độc lập khoan khoan, dần liệu tính
	Tự cường gấp gấp, sớm lo toan” (15)
	Cải lương, đường lối tuy chưa chín
	Tâm nguyện vì dân cũng dốc mòn.
	
	14/11/2005
	
	Chú thích:
	
	(1) Câu nói bất hủ của Bà Triệu: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá kình ở biển đông, quét sạch quân thù khỏi bờ cõi, chứ không thèm khom lưng làm tỳ thiếp người”.
	(2) Câu truyền miệng của Quân tướng nhà Hán tỏ nỗi sợ khi đối trận với Bà Triệu: “Hoành qua đương hổ dị, đối địch Vương Bà nan”.
	(3) Được tin quân Tống tiến vào xâm lược nước ta bằng cả hai đường thủy và bộ, Lê Hoàn chủ động bố trí chận đánh địch lập nên kỳ tích Chi Lăng lần đầu tiên và tái hiện chiến thắng Bạch đằng lần thứ 2 trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
	(4) Khi Lý Công Uẩn sinh ra thì mẹ chết, tương truyền Thần Long báo mộng cho sư trụ trì chùa ra mang về nuôi. Ngay khi sinh ra ở 2 bàn tay của ông đã có 4 chư “sơn hà” và “xã tắc”.
	(5) Bài thơ của Lý Thường Kiệt được xem như Tuyên Ngôn Độc Lập lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
	(6) Khi được Thái hậu hỏi ý kiến, Tô Hiến Thành tiến cử Trần Trung Tá làm tướng quốc thay cho mình chứ không phải là Võ Tán Đường, người bạn chung thủy luôn túc trực bên giường bệnh của ông. Khi vua Lý Anh Tông mất giao cho Tô Hiến Thành giúp đỡ Đông cung thái tử Long Trát (lúc đó mới 3 tuổi). Nhiều lần Thái hậu khuyên dỗ quan Thái úy phế Long Trát để lập Long Xưởng, nhưng không lay chuyển nổi ý chí của ông.
	(7) Nguyên văn câu nói của Thái sư Trần Thủ Độ: “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”.
	(8) Dịch bài thơ của Phạm Ngũ Lão:
	Vung giáo non sông trải mấy thu
	Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
	Làm trai ví chẳng nên công trạng
	Luống thẹn tai nghe chuyện Võ Hầu”
	Võ Hầu tức Võ Hương hầu Gia Cát Lượng, nhân vật huyền thoại nhiều mưu lược, phò Lưu Bị thời Tam Quốc.
	(9) Nguyên văn câu Trần Bình Trọng trả lời Thoát Hoan khi giặc muốn dụ ông ra hàng: “Ninh vi Nam quỷ, Bất vi Bắc vương”.
	(10) Ý trong bài Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi: “Lấy đạo nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”.
	(11) Nhà Tây Sơn kéo dài 24 năm 1778-1802
	(12) Khi bắt được Ngô Thời Nhiệm (theo Tây Sơn), Đặng Trần Thường (theo Gia Long) tự đắc đọc:
	- Ai công hầu, ai khanh tương, trong trần ai, ai dễ biết ai.
	Ngô Thời Nhiệm khảng khái đáp
	- Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế.
	(13) Hết lòng kháng chiến chống Pháp, bị thương và bị giặc bắt, Nguyễn Tri Phương tỏ thái độ bất hợp tác, không chịu ăn uống và chữa trị vết thương. Khi biết mình không còn sống nổi nữa, ông nhờ người tắm rửa sạch sẽ rồi bình thản đi vào cõi chết, để lại lòng kính phục, thương tiếc cho hàng triệu người Việt nam yêu nước.
	(14) Nguyên văn câu nói bất hủ của Nguyễn Trung Trực: “Bao giờ nước Nam hết cỏ thì mới hết người Nam đánh Tây”.
	(15) Tóm tắt những quan điểm của cụ Phan Chu Trinh.
        
        
            Chỉ là dĩ vãng
            Lượt xem: 31244
        
        
        17/12/2014 22:49
        
            Mưa làm cho đất phôi pha
Hai ta hóa đá cũng là rong rêu
Mây hồng tuổi độ bao nhiêu
Có che được hết buổi chiều hoàng hôn
        
    
        
        
            Chỉ là kỷ niệm
            Lượt xem: 21827
        
        
        17/12/2014 22:48
        
            Còn đâu đôi mắt xưa buồn
Những đêm thao thức chờ trông một người
Bây giờ chỉ mỗi tôi thôi
Nghe ray rứt nỗi ngậm ngùi quanh đây
        
    
        
        
            Bóng nước
            Lượt xem: 33165
        
        
        17/12/2014 22:37
        
            Bập bồng
Bong bóng trời mưa
Chút chua xót của
Ngày xưa có còn
Cây mơ lá rũ
Chiều đông
Hồn tôi nhàu nát mênh mông nỗi buồn
        
    
        
        
            Bên hàng dâm bụt
            Lượt xem: 23370
        
        
        17/12/2014 22:36
        
            Tôi về thăm lại chốn xưa
Qua cây cầu nhỏ nắng trưa mùa hè
Con đường vẫn bóng hàng tre
Hàng dâm bụt nở loe hoe bên rào
        
    
        
        
            Vọng tiếng quê hương
            Lượt xem: 35826
        
        
        17/12/2014 22:35
        
            Những cuộc đời là biển trôi sóng nổi
Chấm hỏi nào cũng là kẻ tha hương
Đừng hỏi tôi đâu là những cánh đồng
Quê hương xưa có còn chùm khế ngọt
        
    
        
        
            Mưa chiều miền Trung
            Lượt xem: 38869
        
        
        17/12/2014 22:34
        
            Răng mà da diết người ơi
Chiều trên phố Huế mưa rơi nhạt nhòa
Hồi chuông Thiên Mụ trôi xa
Vãn câu chuyện cổ nghe ra mà buồn
        
    
        
        
            Mưa bong bóng ngày xưa
            Lượt xem: 24046
        
        
        17/12/2014 22:33
        
            Phập phồng bong bóng trời mưa
Chút chua xót của ngày xưa có còn
Cây mơ lá rũ chiều đông
Hồn tôi nhàu nát mênh mông nỗi buồn
        
    
        
        
            Cho mùa đông kỷ niệm
            Lượt xem: 31346
        
        
        17/12/2014 22:32
        
            Chừng như lạnh giá hồn tôi
Tiếng chuông còn đó trong lời thánh ca
Đêm huyền thoại của ngày xa
Nghe thời gian có nhớ qua cõi lòng
        
    
        
        
            Hoa muống biển … trong đêm Giáng sinh
            Lượt xem: 30922
        
        
        17/12/2014 22:31
        
            Những hàng cây phơi mình trong gió lạnh
Chiếc lá vàng lặng lẽ cuối cùng rơi
Tiếng chuông vang nỗi nhớ như buông lời
Từ sâu thẳm trái tim người viễn xứ
        
    
        
        
            Vết bụi trần
            Lượt xem: 37642
        
        
        17/12/2014 22:30
        
            Ngõ về quán vắng không tên
Đường khuya hiu hắt bạt phên mái nhà
Bóng gần mà lại như xa
Đẫm sương trên áo trăng ngà đôi vai
        
    
Hiển thị 1261 - 1270 tin trong 2302 kết quả