nguồn : http://vi.wikipedia.org
Nguyễn Minh Châu (20 tháng 10 năm 1930 - 23 tháng 1 năm 1989) là một nhà văn có ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam và thời kỳ đầu của đổi mới.
Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Theo lời kể của vợ ông, bà Nguyễn Thị Doanh, tên khai sinh của Nguyễn Minh Châu là Nguyễn Thí. Chỉ tới khi đi học, bố mẹ mới đổi tên cho ông thành Minh Châu. Trong những ghi chép cuối cùng, Ngồi buồn viết mà chơi ông viết trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về mình: "Từ lúc còn nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Sau này lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến một nơi đông người tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ".
Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sỹ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972.
Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi.
Năm 1960, Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập. Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập kỷ (1960-1989), khép lại với chuyện vừa Phiên chợ Giát viết năm 1989, ông để lại 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình. Các tác phẩm chính của ông là Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983), Bến quê (truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Cỏ lau (truyện vừa, 1989)...
Tiếng mưa đêm
Lượt xem: 33677
17/12/2014 22:14
Những hạt mưa rơi xuống
Trắng cả một trời thơ
Nhìn mưa anh lại nhớ
Thuở tình còn ban sơ
Lý nhãn lồng
Lượt xem: 38158
17/12/2014 22:14
Tôi chưa ăn trái nhãn lồng
Em không tìm được giậu mồng tơi xưa
Ai người gánh nắng cùng mưa
Lạc con bướm trắng chiều lưa thưa buồn
Đôi mắt người xưa
Lượt xem: 18477
17/12/2014 22:13
Em buồn đứng cuối sân ga
Nhìn theo chiếc bóng tàu xa xa dần
Đôi con mắt ướt long lanh
Phải chăng là của một lần tiễn đưa
Tiếng tắc kè gọi bậu
Lượt xem: 20183
17/12/2014 22:12
Bậu đi rồi bao giờ bậu trở lại
Bờ ao xưa vẫn canh cánh mong chờ
Con tắc kè tặc lưỡi cứ ngẩn ngơ
Trên cây khế như buông lời than trách
Lạc bước
Lượt xem: 30664
17/12/2014 22:11
Xin đừng nhớ núi và sông
Vì bao giờ đã chạnh lòng nước non
Làm sao đi nhặt ánh hồng
Mặt trời nào có mà trông nắng về
Thương nhớ mẹ hiền
Lượt xem: 35603
17/12/2014 22:09
Từ đây con mất mẹ rồi
Hương lòng một nén nghìn đời cácg xa
Người ta có mẹ có cha
Mà sao con mẹ bỗng là mồ côi
Nỗi buồn con cuốn chiếu
Lượt xem: 27057
17/12/2014 22:09
Xòe tay thấy một quê hương
Sợ mưa đêm ướt đường cong lối về
Vỡ trong tiềm thức mà nghe
Nhạt môi cơm áo lời thề nước non
Mưa rơi phố nhỏ
Lượt xem: 31102
17/12/2014 22:08
Mưa rơi trên phố nhỏ
Giọt mưa rớt vội vàng
Mây mù che giăng lối
Chuông giáo đường vang vang
Với những mùa thu
Lượt xem: 28758
17/12/2014 22:07
Em hỡi còn đâu ngày tháng cũ
Những mùa thu trước những mùa thu
Ai khắc lên tim màu tan vỡ
Mà lòng thì vẫn sao cứ như
Lá đổ chiều thu
Lượt xem: 30251
17/12/2014 22:06
Những chiếc lá cuối thu màu vàng úa
Bước em về có lạnh lắm không em
Áo chéo khăn hôn suối mái tóc mềm
Trời hiu quạnh hay lòng người cô quạnh
Hiển thị 1111 - 1120 tin trong 2126 kết quả