(đề cập sơ lược đến lịch sử dân tộc; khởi từ thời Hồng Bàng cho đến nhà hậu Lê với vua Lê Lợi...)
	
	Ngày xưa không mấy xa xưa
	Ngày tôi chưa lớn cũng chưa biết buồn
	Chẳng buồn chiều hạ mưa tuôn
	Chỉ riêng đôi mắt mẹ buồn sang thu
	Ngày xưa đông đến sương mù
	Hết đông vui nhộn mỗi mùa xuân qua
	Giãi dầu giông bão nắng mưa
	Đong đưa chiếc võng năm xưa mỗi chiều
	Mẹ ru trong gió hiu hiu
	Lời ru trong cõi tiêu điều gian nan
	Giọng ru trong tiếng võ vàng
	Hôm nay như vẫn ẩn tàng trong tôi
	Ru tôi từ thuở nằm nôi
	Đến khi khôn lớn thành người Việt Nam
	Việt Nam- Mẹ bảo Việt Nam
	Việt Nam Bách Việt họ hàng chi tông
	Bách Việt con cháu Thần Nông
	Cùng trong một giống Tiên Rồng mà ra
	Bách Việt trăm họ một nhà
	Thời xưa Âu Việt sau này Quảng Tây
	Dương Việt ắt đất Giang Tây
	Ngày xưa U Việt sau này Triết Giang
	Quảng Đông: Đông Việt rõ ràng
	Mân Việt: Phúc Kiến nối giang san nhà
	Lạc Việt tức bắc Việt ta
	Việt Thường: Thanh-Nghệ-Tĩnh là hôm nay
	Năm mươi thế kỷ cách nay
	Dần dà đất nước về tay người Tàu
	Mẹ ru trong tiếng thương đau
	Mẹ thương Bách Việt mất nhau phũ phàng
	- Việt Nam; mẹ bảo Việt Nam
	Việt Nam sau gọi Văn Lang, Hồng Bàng
	Văn Lang với họ Hồng Bàng
	Hồng Bàng dựng nước Văn Lang: Vua Hùng
	Văn Lang mười tám đời Hùng
	Một thời con Lạc cháu Hồng hoan ca
	Một thời non nước thái hòa
	Văn minh, văn hóa khởi đà từ đây
	Yêu thương, đùm bọc, xum vầy
	Yêu thương như việc: Giây, cây, cau, trầu
	Ẩn trong sự tích trầu cau
	Sau thành tục lệ ăn trầu nhuộm răng
	Con ơi có nhớ hay chăng
	Cũng trong huyền sử Văn Lang, vua Hùng
	Ta còn sự tích bánh chưng
	Mặt trời, trái đất: Bánh chưng, bánh dày
	Lưu truyền cho đến hôm nay
	Khúc quanh lịch sử sau ngay thời này
	Tổ tiên Bách Việt loay hoay
	Loay hoay đoàn kết để xoay cuộc thời
	Thế là Âu Lạc ra đời
	Hùng Vương hết nghiệp đến thời Thục lên (*)
	(*) Văn Lang nhà Thục và vua An Dương Vương 257-207 trước Tây lịch (ttl).
	Đóng đô ở đất Phúc Yên (Phong Khê)
	Cổ Loa được dựng để yên sơn hà
	Vì Tần xâm chiếm nước ta
	Tần không thắng được chúng đà lui binh
	Bách Việt tái thống nhất mình
	Triệu Đà dựng nghiệp dấy binh ngập trời
	Thế là Nam Việt ra đời
	Một trời, một đất, một thời mênh mông
	Quảng Tây, bắc Việt, Quảng Đông
	Tuy chưa đủ đất cha ông giống nòi
	Nhưng là nước Việt hẳn hòi
	Đến khi Tần phải vào thời cáo chung
	Lưu Bang, Hạng Võ tranh hùng
	Lưu Bang thắng Hạng vẫy vùng bắc phương
	Nam Việt với Triệu Vũ Vương
	Khởi suy từ buổi Vũ Vương băng hà
	Hán xua quân đánh nước ta
	Nước ta tể tướng Lữ Gia kiên cường
	Nhưng không chống nổi bạo cường
	Vua, tôi bị giết quê hương thuộc Tàu (*)
	(*) Văn Lang nhà Triệu 207-111 ttl
	Thời kỳ bắc thuộc lần thứ nhất từ năm 111-39 ttl
	Con ơi khởi sự thương đau
	Ngàn năm bắc thuộc khởi đầu từ đây
	Hơn trăm năm trước lịch Tây
	Đau thương, oan nghiệt đắng cay cho mình
	Cái thằng Tô Định yêu tinh
	Nó làm Thái thú đất mình gian tham
	Gian tham, ác độc, bạo tàn
	Thế nên Thi Sách mưu toan dựng cờ
	Nhưng ông chẳng đặng thời cơ
	Bị giặc bắt giết, mưu cơ không thành
	Vợ ông: Trưng Trắc xuân xanh
	Cùng em, Trưng Nhị dấy thành động binh
	Tô Định thất vía hoảng kinh
	Nó cùng bè lũ yêu tinh tan tành
	Hai Bà cứu nước công thành
	Đóng đô ở đất kinh thành Mê Linh (*)
	(*) Hai bà Trưng: 40-43 stl. Hai Bà ở tại ngôi được gần hai năm.
	Một năm đất nước yên bình
	Nào ngờ Đông Hán xua binh đánh mình
	Mã Viện là tướng cầm binh
	Nó bao vây đất Mê Linh đánh bà
	Thế cô, lực cạn quân ta
	Hai Bà thua trận, nước nhà tan hoang
	Trầm mình khi đến Hát Giang
	Trưng Vương liệt nữ danh vang một trời
	Hò ơi con hỡi, con ơi
	Thế là non nước tái hồi gian nan (*)
	(*) Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai: 43-544 stl
	Dân ta xuống biển lên ngàn
	Để tìm châu báu bạc vàng mà dâng
	Dâng cho cái lũ ma quân
	Để thằng Mã Viện về dâng Hán triều
	Con ơi non nước tiêu điều
	Suốt hai thế kỷ Hán triều trị ta
	Chúng mưu diệt chủng dân ta(*)
	(*)Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt.
	Chúng mưu đồng hoá nước ta với Tàu
	Trầm luân, tang tóc, bể dâu
	Tiếng than dân Việt niềm đau của mình
	Nhưng mưu chúng dệt chửa thành
	Hán triều tan rã; tưởng lành cho ta
	Cục diện Tam quốc bày ra
	Đông Ngô, Thục, Nguỵ chia ba nước Tàu
	Dân ta thống khổ thương đau
	Máu xương tang tóc bể dâu trội phần
	Đông Ngô nối tiếp Hán, Tần
	Giữ nguyên chánh sách nô dân nước mình
	Nữ hùng họ Triệu tên Trinh
	Cùng anh: Quốc Việt dấy binh phạt Tàu
	Cỡi voi xuất trận đi đầu
	Đánh cho bọn chúng về Tàu mấy phen
	Nhưng Ngô vẫn giữ mộng hèn
	Truyền cho Lục Dận, một tên bạo tàn
	Binh đông, tướng dữ dẫn sang
	Nhuỵ Kiều nữ tướng hiên ngang vẫy vùng
	Quyết là giữ lấy non sông
	Nhưng không chống nổi thế công giặc thù
	Hờn này mang đến thiên thu
	Bà hy sinh bởi quân thù Đông Ngô(*)
	(*) Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu: 248 stl
	Con ơi một mảnh cơ đồ
	Bao nhiêu thế kỷ tựa hồ diệt vong
	Mẹ tri mối hận quốc vong
	Người mình giống Việt long đong bởi Tàu
	Đến thời Nam-Bắc bên Tàu
	Nước ta vẫn cảnh thương đau tủi hờn
	Có người họ Lý tên Bôn (*)
	(*) Lý Bôn khởi nghĩa năm 541. Chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai.
	Nước ta được tự chủ từ năm 544-602 stl
	Anh hùng đứng dậy rửa hờn quê hương
	Đánh tan lũ giặc nhà Lương
	Dẹp yên Lâm Ấp biên cương thu hồi
	Vạn Xuân: Tên nước một thời
	Minh quân Nam Đế, vua, tôi một lòng
	An dân thái quốc những mong
	Xây chùa dựng điện nối công nhân hiền
	Kiên cường nối nghiệp tổ tiên
	Giang sơn một mối, Rồng Tiên một nhà
	Một năm thịnh trị hoan ca
	Một năm tự chủ, vua ta, quan mình
	Những đâu khói lửa đao binh
	Giặc thù phương bắc tướng, binh dẫn vào
	Chúng gieo máu lửa thương đau
	Vua, tôi nước Vạn lao đao bởi thù
	Sáu năm mai phục chiến khu
	Việt Vương họ Triệu rửa thù quê hương (*)
	(*) Năm 544, Lý Nam Đế lên ngôi, chưa đầy một năm thì giặc nhà Lương
	lại sang đánh. Ông thua nhiều trận, sắp mất nước. Ông giao binh cho
	tả tướng quân Triệu Quang Phục. Lý Nam Đế mất; Triệu Quang Phục đánh bại
	quân địch và lên ngôi vua. Cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử không phục.
	Nội chiến xảy ra.
	Vẫn thời đất bắc nhà Lương
	Loạn ly đến mất nghiệp vương đế Tàu
	Nhà Trần nối tiếp theo sau
	Vạn Xuân thoát cảnh quan Tàu, dân ta
	Nhưng là nội chiến xảy ra
	Việt Vương thua trận, khởi đà quốc suy (*)
	(*) Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tuỳ. Mở đầu cho thời kỳ
	Bắc thuộc lần thứ ba: 602-938 stl
	Phật Tử họ Lý trị vì
	Nước ta bị mất bởi vì vua suy
	Bỉ cực tái diễn bởi Tuỳ
	Mười lăm năm hậu Tuỳ suy đến Đường
	Suốt ba thế kỷ đau thương
	Suốt ba thế kỷ đoạn trường dân Nam
	Đường cai trị nước An Nam
	Ác ôn, quỷ quyệt gian tham khôn cùng
	Con ơi đất nước khốn cùng
	Bao nhiêu nghĩa sĩ, anh hùng đứng lên
	Đánh tan lũ giặc mấy phen
	Như Mai Hắc Đế vùng lên diệt Tàu (722 stl)
	Thằng Quang Sở Khách về Tàu
	Nước ta lại được ít lâu an bình
	Đường say giấc mộng nam chinh
	Sai Dương Tư Húc kéo binh phạt mình
	Cùng Quang Sở Khách điều binh
	Đường-Ngu; ngu thật với mình với ta
	Con ơi xã tắc sơn hà
	Vua ta bại trận, nước ta thuộc Tàu
	Thuộc Tàu: Ôi! Lại thuộc Tàu
	Nước mình mảnh đất thương đau dặm trường
	Đến năm Đai Lịch nhà Đường
	Có người hảo hớn can cường vùng lên
	Phùng Hưng tên gọi thương quen (*)
	(*)Bố Cái Đại Vương791 stl
	Ông cho lũ phỉ teng beng về Tàu
	Thái lai non nước đồng bào
	Yên vui xum họp cùng nhau một nhà
	Một lòng kiến quốc bảo gia
	Phùng Hưng một đấng quả là minh quân
	Chăn dân với cả lòng nhân
	Đại Vương Bố Cái minh quân băng hà
	Phùng An nối nghiệp vua cha
	Nhưng không giữ nổi sơn hà An Nam
	Đường cho quân đến dụ hàng
	Phùng An nhu nhược đầu hàng Triệu Xương
	Con ơi tái cảnh đau thương
	Con ơi có xót quê hương của mình
	Một dân tộc với tử sinh
	Một ngàn năm với chiến chinh chống thù
	Hiểm nguy nhất vẫn Đường-Ngu
	Chúng dùng văn hóa xây tù nước Nam
	Chúng nuôi mộng huỷ An Nam
	Chúng nuôi mộng biến người Nam thành Tàu
	Nhưng rồi chẳng đặng vào đâu
	Suốt bao thế kỷ vẫn Tàu vẫn ta
	Cuối Đường loạn lạc xảy ra
	Nguy ra cho giặc, may ra cho mình
	Khúc Thừa Dụ dấy nghiệp binh (906-907)
	Đánh cho lũ phỉ hoảng kinh tời bời
	Tử, Sinh, yểu, thọ tại trời
	Một năm Thừa Dụ tại ngôi trị vì
	Nhưng là sao sáng một vì
	Khai thời tự trị, tôn ty tự mình
	Khúc Hạo nối nghiệp cha mình (907-917)
	Giữ yên bờ cõi, dân tình an cư
	Minh quân Khúc Hạo nhân từ
	Ở thời đất bắc họ Chu diệt Đường
	Lập ra giòng dõi hậu Lương
	Vẫn nuôi mộng chiếm quê hương Lạc Hồng
	Ngàn đời mộng chúng chẳng xong
	Ngàn năm đô hộ đã xong một thời
	Con ơi hùng sử một thời
	Con ơi bi sử một trời đau thương
	Ngàn năm lũ giặc nhiễu nhương
	Chỉ còn Lạc Việt, Việt Thường có nhau
	Nước ta Bách Việt là đâu
	Đất mình vẫn trải ở Tàu hôm nay
	Bao nhiêu thế kỷ cách nay
	Nhưng mà vẫn mới như ngày hôm qua
	Vẫn ghi trong dạ dân ta
	Vẫn chờ ngày nổi phong ba lôi đình
	Để đòi lại đất của mình
	Để thôi nhược tiểu như mình hôm nay
	Thế thời vận nước chẳng may
	Quảng Châu, vùng đất trên tay Lương triều
	Lưu Nham phản lại Lương triều
	Chiếm vùng đất ấy lập triều đình riêng
	Lập ra Nam Hán một miền
	Lũ này là mối oan khiên cho mình
	Lý Tiến với Lương Khắc Trinh
	Hai thằng chiếm giữ Tống Bình nước ta
	Hán triều bắt giữ vua ta
	Tướng Dương Diên Nghệ quả là trung quân (931-937)
	Ông nuôi chí với ba quân
	Vùng lên một trận đuổi quân hung tàn
	Nối trang lịch sử vẻ vang
	Vua quan nhà Hán như tan cả hồn
	Cho quân tiếp viện rửa hờn
	Tướng giặc: Trần Bảo xác chôn quê mình
	Hán triều thất vía hoảng kinh
	Nước ta lại được thái bình dân an
	Nhưng Kiều Công Tiễn phản thần
	Giết Dương Diên Nghệ vương quân đoạt quyền
	Kiều là tuỳ tướng đương quyền
	Rể Dương Diên Nghệ: Ngô Quyền dấy quân (938)
	Dấy quân diệt kẻ phản thần
	Kiều liền xin Hán cho quân đến nhà
	Ngô Quyền đoán biết phong ba
	Giết Kiều để chiếm Đại La kinh thành
	Rồi mau đối phó chiến tranh
	Chiến tranh chống Hán, chiến tranh giữ nhà
	Quyết tâm nối chí nhạc gia
	Quyết tâm bảo vệ san hà nước Nam
	Hoằng Thao dẫn thuỷ binh sang
	Còn vua cha trấn ở đàng Hải Môn (Quảng Đông)
	Sẵn sàng tiếp ứng cho con
	Hoằng Thao theo vịnh Hạ Long đánh vào
	Ngô Quyền dụ chúng đuổi vào
	Đến khi nước rút ào ào tấn công
	Hoằng Thao tháo chạy trên sông
	Tàu thuyền thủng đắm bởi chông bịt đồng
	Máu thù nhuộm đỏ dòng sông
	Xác thù chìm nổi khắp sông Bạch Đằng
	Hoằng Thao chết trận Bạch Đằng
	Vua Nam Hán khóc để rằng lui quân
	Ngô Quyền đại thắng Hán quân (*)
	(*) Ngô Quyền đại thắng Hán quân năm 938 đã thật sự chấm dứt
	một ngàn năm đô hộ của giặc phương bắc. Mở thời tự chủ cho dân tộc.
	Mở thời tự chủ cho dân tộc nhà
	Xưng vương đóng ở Cổ Loa
	Năm năm đất nước thái hòa yên vui
	Ngô vương vắn số qua đời
	Tam Kha em vợ; cướp ngôi cháu mình
	Khai thời nội chiến đao binh
	Hăm hai năm lẻ điêu linh nước nhà
	Mười hai quân sứ một nhà
	Mười hai quân sứ trong nhà nước Nam
	Tổ tiên phò trợ nước Nam
	Ông Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan quần hùng
	Chỉ trong mấy tháng vẫy vùng
	Sơn hà thống nhất trùng phùng quê hương
	Đinh Bộ Lĩnh: Vạn Thắng Vương (968-980)
	Nước Đại Cồ Việt; quân vương Tiên Hoàng
	Hoa Lư là đất cưu mang
	Hoa Lư cũng đất Tiên Hoàng đóng đô
	Giữ yên non nước cơ đồ
	Mười hai năm hậu cơ đồ Đinh tan
	Tướng quân thập đạo Lê Hoàn
	Lên ngôi để giữ giang san nước nhà
	Nhà Tiền Lê được mở ra
	(nhà tiền Lê 980-1009)
	Đại Hành hoàng đế quả là xứng danh
	Bình Chiêm, phá Tống công thành
	Chi Lăng chiến thắng vang danh một thời
	Hăm bốn năm ở tại ngôi
	Sơn hà xã tắc một thời an khang
	Khởi suy từ lúc vua băng
	Các hoàng, thái tử lăng xăng tranh giành
	Lê Long Đỉnh giết vua anh
	Phá tan sự nghiệp thanh danh Lê triều
	Thế là hậu Lý lập triều (1010-1225)
	Một triều bền vững với nhiều minh quân
	Sống thời tự chủ quân, thần
	Tống kiêng, Xiêm nể, Chiêm thần phục ta
	Thánh Tông vua Lý băng hà
	Nhân Tông bảy tuổi thay cha nối giòng
	Bên Tàu thời Tống Thần Tông
	Với Vương An Thạch nghênh ngông bạo tàn
	Mưu toan thôn tính nước Nam
	Vua ta biết được mưu toan của Tàu
	Sai hai tướng giỏi phạt Tàu
	Thường Kiệt, Tôn Đản: Hai đầu xuất binh
	Tôn Đản thống lãnh bộ binh
	Lý Thường Kiệt dẫn thuỷ binh tiến vào
	Đánh Tàu ngay tại đất Tàu (1075)
	Đánh cho chúng hết mưu cầu nhiễu nhương
	Ta tiên hạ thủ vi cường
	Biết mình, biết địch, biết nương thiên thời
	Vua quan nhà Tống tơi bời
	Vừa cay, vừa thẹn với người với ta
	Năm sau chúng tiến binh qua
	Tống, Chiêm, Chân Lạp kết ba đánh mình
	Hai năm vây bủa nước mình
	Cuối cùng chúng phải điều đình rút quân
	Bởi Lý Thường Kiệt đại thần
	Với thơ khích lệ dân, quân một lòng
	Bốn câu thơ dậy bể đông
	Nức lòng chiến sĩ, nức lòng dân Nam
	“Nước Nam là của vua Nam
	Sách trời đã định rõ ràng chẳng sai
	Quân xâm lăng trái ý trời
	Một phen thảm hại tời bời một phen” (*)
	(*) Bàng Bá Lân dịch
	Quả như tiếng sấm vang lên
	Bài thơ như triệu mũi tên chống thù
	Lưu truyền cho đến thiên thu
	Sáng ngời chính ngha chống thù cứu quê
	Thế rồi hậu Lý suy hề
	Nhà Trần dựng nghiệp ta hề vẻ vang (*)
	(*) Nhà Trần 1225-1400. Nhà Trần thắng quân Mông cổ ba lần
	Lần thứ nhất:1257. Lần thứ hai: 1285. Lần thứ ba: 1288
	Năm châu cũng phải ngỡ ngàng
	Bởi dân nước Việt ba lần thắng Mông
	Lần đầu với Trần Thái Tông
	Rồi sau liên tiếp Nhân Tông hai lần
	Khởi nghiệp Mông: Thiết Mộc Chân
	Vượt qua Vạn lý trường thành; Trung Hoa
	Vua quan nhà Tống xuýt xoa
	Đông Âu, trung Á cũng đà hàng Mông
	Vương quân các nước rúng lòng
	Giặc Mông như trận cuồng phong được đà
	Thành Cát Tư Hãn băng hà
	Cháu Hốt Tất Liệt; con A Loa Đài
	Chia nhau đánh chiếm khắp nơi
	Một nửa thế giới như rơi cả hồn
	Trung Hoa; nhà Tống phải vong
	Triều Tiên, Tây Tạng cũng trong cảnh tình
	Ba Lan, Hung phải mở thành
	Nga La Tư cũng dâng thành cho Mông
	Hẳn là một trận cuồng phong
	Thế mà Mông phải hết ngông bởi mình
	Ba lần tiến đánh nước mình
	Ba lần đại bại tan tành thảm thương
	Trần Quốc Tuấn: Hưng Đạo Vương
	Vân Đồn, Tây Kết, Chương Dương, Bạch Đằng
	Hàm Tử, Vạn Kiếp lừng danh
	Xác thù như núi xứng danh Lạc Hồng
	Toa Đô chết giữa binh đông
	Thoát Hoan phải rúc ống đồng mà đi
	Phàn Tiếp với Ô Mã Nhi
	Bị ta bắt sống trong khi rút về
	Sài Thung chột mắt chạy về
	Mông-Nguyên phải bỏ mộng hề chiếm ta
	Một lòng “sát Thát” quân ta
	Diên Hồng hội nghị quả là trứ danh
	Đại Vương Hưng Đạo xứng danh
	Anh Hùng dân tộc lưu danh muôn đời
	Hưng vong cũng tại bởi trời
	Nhà Trần hết nghiệp đến thời suy vi
	Tiếm ngôi bởi Hồ Quý Ly (1400-1407)
	Non sông tái cảnh lâm ly đoạn trường
	Nhà Minh được dịp nhiễu nhương
	Nối mưu thôn tính quê hương của mình
	Mượn danh đánh tiếng phò Trần
	Mộc Thạnh, Trương Phụ tướng quân Minh Tàu
	Dẫn binh hai ngả tiến vào
	Con ơi đất nước rơi vào tay Minh (1414-1427)
	Mười ba năm thuộc nhà Minh
	Sơn hà xã tắc điêu linh tủi hờn
	Địa linh nhân kiệt Lam Sơn
	Phất cờ khởi nghĩa rửa hờn quê hương
	Ông Lê Lợi: Bình Định Vương(*)
	(*) Cuộc khởi nghĩa 10 năm của Lê Lợi 1418-1427
	Đã chấm dứt thời đô hộ của giặc Minh
	và lập ra nhà hậu Lê: 1428- 1527.
	Đại thần Nguyễn Trãi phò vương đuổi thù
	Chí Linh dưỡng địa chiến khu
	Chi Lăng, Tuỵ Động ngàn thu lẫy lừng
	Mười năm khởi nghĩa oai hùng
	Liễu Thăng bị giết, Vương Thông đầu hàng
	Mộc Thạnh bao bận chạy làng
	Nước Nam linh địa ngổn ngang xác thù
	Lê Lai gương sáng ngàn thu
	Bình Ngô Đại Cáo; chứng từ vẻ vang
	Hậu Lê dựng nghiệp hiên ngang
	Với Lê Thái Tổ nối trang sử hùng
	Nối thời tự chủ non sông
	Nối giòng hào kiệt, nối công anh hùng…
	
	***
	(*) Trích từ cuốn tiểu thuyết "Cầu Tre Lắc Lẻo".
	
	* Mời quý vị đọc Cầu Tre Lắc Lẻo [ngắn gọn] qua đường dẫn ĐÔNG HẢI -vnthuquan .
	* Hoặc đọc nguyên bản qua đường dẫn: Trầm Thy Trang: Trang Văn
	
	Trân trọng.
	ĐÔNG HẢI - NguyễnĐức Hiền
        
        
            Truyện Kiều 1401-1450  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 21623
        
        
        22/08/2013 10:07
        
            1401 “Lượng trên quyết chẳng thương tình,
1402 “Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!”
1403 Thấy lời sắt đá tri tri,
1404 Sốt gan, ông mới cáo quì cửa công.
        
    
        
        
            Truyện Kiều 1451-1500  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 20951
        
        
        22/08/2013 10:04
        
            1451 Cười rằng: “Đã thế thì nên,
1452 “Mộc già hãy thử một thiên, trình nghề.”
1453 Nàng vâng cất bút tay đề,
1454 Tiên hoa trình trước án phê, xem tường.
        
    
        
        
            Truyện Kiều 1501-1550  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 19873
        
        
        22/08/2013 10:03
        
            1501 Sông Tần một dải xanh xanh,
1502 Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương-quan.
1503 Cầm tay dài ngắn thở than,
1504 Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời.
        
    
        
        
            Truyện Kiều 1551-1600  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 19017
        
        
        22/08/2013 10:02
        
            1551 “Làm cho trông thấy nhãn tiền.
1552 “Cho người thăm ván bán thuyền biết tay”
1553 Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
1554 Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
        
    
        
        
            Truyện Kiều 1601-1650  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 19225
        
        
        22/08/2013 10:01
        
            1601 Được lời như cởi tấc son,
1602 Vó câu thẳng ruổi, nước non quê người.
1603 Long lanh đáy nước in trời,
1604 Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
        
    
        
        
            Truyện Kiều 1651-1700  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 18925
        
        
        22/08/2013 10:00
        
            1651 Tôi đòi phách lạc, hồn bay,
1652 Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình.
1653 Thúc ông nhà cũng gần quanh,
1654 Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời.
        
    
        
        
            Truyện Kiều 1701-1750  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 20127
        
        
        21/08/2013 22:37
        
            1701 Chẳng qua đồng cốt quàng xiên,
1702 Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
1703 Tiếc hoa, những ngậm ngùi xuân,
1704 Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!
        
    
        
        
            Truyện Kiều 1751-1800  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 15862
        
        
        21/08/2013 22:32
        
            1751 Dạy rằng: “May rủi đã đành,
1752 “Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
1753 “Cũng là oan nghiệp chi đây,
1754 “Sa cơ mới đến thế này, chẳng dưng.
        
    
        
        
            Truyện Kiều 1801-1850  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 18166
        
        
        21/08/2013 22:31
        
            1801 Tiểu thư đón cửa giã giề,
1802 Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
1803 Nhà hương cao cuốn bức là,
1804 Buồng trong, truyền gọi nàng ra lạy mừng.
        
    
        
        
            Truyện Kiều 1851-1900  (tác phẩm có 3254 hàng)
            Lượt xem: 20302
        
        
        21/08/2013 22:29
        
            1851 Nàng đà tán hoán, tê mê,
1852 Vâng lời ra trước bình the vặn đàn:
1853 Bốn dây như khóc, như than,
1854 Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
        
    
Hiển thị 1811 - 1820 tin trong 2303 kết quả